càng nhiều về đồ gốm Việt Nam tại các di tích khảo cổ học ở lục địa, hải đảo và các di chỉ tàu đắm đã giúp chúng ta tái tạo lại bối cảnh lịch sử và dòng chảy xuất khẩu của gốm Việt Nam qua con đường thương mại biển quốc tế. 2. Đồ gốm thương mại
Chiêm ngắm những cổ vật hiếm thấy qua các thời kỳ ở Việt Nam. Thứ năm, 25/10/2018 - 06:00. (Dân trí) - Bảo tàng Ninh Bình đang trưng bày hàng trăm cổ vật thời phong kiến Việt Nam. Đây đều là những cổ vật có giá trị lịch sử to lớn, hiếm có từ thời Đông Sơn, Đinh Lê
Ảnh cổ vật gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử - Gốm Sứ đó đây - Hiện vật gốm bằng đất nung hình lá đề, trang trí chim phượng thời Trần (thế kỷ 13-14). Gốm bằng đất nung thời Lý - Trần. Nhiều nghệ nhân mang những bộ sưu tập riêng đến trưng bày tại triển lãm.
Tính chung 7 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ sang EU đạt 42,11 triệu USD, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm 2020. Tháng 7/2021, xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ sang Bỉ tăng mạnh - là thị trường thuộc EU nhập khẩu nhiều nhất mặt hàng này của Việt Nam trong tháng, đạt
Top 5+ món quà tặng sếp nữ 20/10 ý nghĩa và sang trọng Bình hút tài lộc. Bình hút lộc được làm từ gốm sứ Bát Tràng, trang trí hoàn toàn bằng thủ công dưới những bàn tay tài hoa của những nghệ nhân làng gốm. Đây là vật phẩm phong thủy, có khả năng hút tài lộc, mang lại may mắn cho ai sở hữu nó.
. Mục lục1 Gốm sứ Việt Nam không ngừng phát triển qua mọi thời đại2 Tìm hiểu đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời Gốm thời Lý Gốm thời Trần Gốm thời Lê sơ Gốm sứ Chu Gốm sứ Bát Tràng3 Gốm sứ Việt Nam ngày nay có đặc điểm gì? Việt Nam là một trong những nơi gốm xuất hiện sớm. Theo các tài liệu khảo cổ, cách đây một vạn năm, ở Việt Nam đã ra đời loại gốm đất nung. Để tìm hiểu sự phát triển và hình thành nên nghề gốm sứ các bạn không thể bỏ qua bài chia sẻ [ Thuyết minh ] Tìm hiểu đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại sau đây Gốm sứ Việt Nam không ngừng phát triển qua mọi thời đại > Kết quả khảo cổ học cho biết đồ Gốm đã được người Việt chế tác, sử dụng cách đây khoảng 10. 000 năm. Có thể nói gốm sứ Việt Nam nói riêng hay gốm sứ trên thế giới nói chung không chỉ còn là những đồ dùng thủ công phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người chén, ấm, đĩa, tô… mà còn hơn thế nó đã trở thành một nét hồn dân tộc, trở thành một vẻ đẹp riêng, một niềm tự hào riêng nói lên cốt cách, tâm hồn của cả một đất nước. Điển hình là thương hiệu gốm sứ Bát Tràng đã đi vào lòng người biết bao thế hệ trong và ngoài nước. > Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Cụ thể là để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải trải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Gốm thời Lý Đặc điểm gốm sứ tráng men hời Lý 1010-1224 bap gồm gốm men trắng ngà ,men nâu và men ngọc màu xanh. Gốm men ngọc thời Lý rất tinh tế, xương đất được lọc kỹ, dày và chắc. Lớp men gốm dày phủ kín xương gốm, mịn, bóng, sờ có cảm giác mát tay. Xương gốm và lớp men bám vào nhau rất chắc. Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. > Men gốm sứ thời Lý trong suốt, sâu thẳm, mịn, lấp lánh ánh sáng. Gốm men ngọc xanh có điểm thêm các sắc vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống Trung Quốc chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống. Gốm thời Trần Gốm thời Trần1225-1339 có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam. > Do Gốm thời Trần1225-1339 phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Về hoa văn trang trí mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Dễ thấy nhất là với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Tóm lại, hoa văn trên các sản phẩm gốm sứ rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Gốm thời Lê sơ Gốm thời Lê sơ 1428-1526 có các thương hiệu dòng gốm được phát triển rất rầm rộ. Điển hình nhất là gốm Chu Đậu và gốm sứ Bát Tràng Gốm sứ Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp. Mặc dù gốm Chu Đậu đã xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. > Hoa văn chủ đạo của gốm sứ Chu Đậu là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. Gốm sứ Bát Tràng Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần. Các sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói… ngày càng tinh xảo hơn. Men trang trí trên các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Bởi thế gốm sứ bát tràng còn được đưa vào trong thơ ca “Ước gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây..” Gốm sứ Việt Nam ngày nay có đặc điểm gì? Tính tới thời điểm hiện tại thì gốm sứ Việt Nam không chỉ khẳng định vị trí của mình trong nước mà còn trên thế giới. Nhiều nước châu Á, châu Âu, đặc biệt là Nhật Bản và Đông Nam Á đã nhập khẩu gốm Việt Nam với số lượng lớn. > Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra những kết luận mới về con đường biển thông thương giữa các nước từ Nhật Bản, Việt Nam đến các nước Đông Nam Á, gọi con đường này là “con đường gốm”, thay cho tên “con đường tơ lụa và trầm hương” thường được dùng trước đây. Sự hình thành loại chất liệu sứ với các kỹ thuật sản xuất và trang trí hiện đại hàng loạt các thương hiệu, xưởng sản xuất ra đời. Tuy nhiên thì cái tên Bát Tràng vẫn khẳng định được vị trí của mình không chỉ đối với người Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Hãy cùng chiêm ngưỡng các kiệt tác gốm sứ Việt Nam thương hiệu Bát Tràng thời kỳ hiện đại hóa. Đăng nhập
Skip to content Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ – Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ Bài viết Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ thuộc chủ đề về Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, hãy cùng tìm hiểu Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ trong bài viết hôm nay nhé ! Mời bạn Xem video Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Giới thiệu về Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ Đồ gốm sứ từ lâu đã vô cùng quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Việt Nam. Trong mỗi gia đình, mỗi đình chùa hay … Tra cứu dữ liệu về Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ tại Wikipedia Nếu có bắt kỳ thắc mắc nào về Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ hãy cho chúng mình biết nhé, mọi thắc mắc hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình hoàn thiện hơn trong các bài sau nhé! Bài viết Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ được mình và team tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ giúp ích cho bạn thì hãy ủng hộ team Like hoặc Share nhé! Hình ảnh về Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Ảnh giới thiệu cho Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Tham khảo thêm những video khác về Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ tại đây Nguồn tham khảo từ khóa Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ tại Youtube Thống kê về video Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Video “Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ” đã có lượt xem, được thích [vid_likes] lần, đánh giá /5 điểm. Kênh Gốm sứ Cương Duyên đã dành nhiều công sức và thời gian để làm clíp này với thời lượng , mọi người hãy share clip này để cám ơn tác giả nhé. Từ khoá cho video này Khám phá nguồn gốc và lịch sử của nghệ thuật gốm sứ, [vid_tags], Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ, Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ, Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ, Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ, [keyword_title_words_as_hashtags] Nguồn Gốm Sứ Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Tại Google
Có thể nói rằng, trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Sự ra đời của đồ gốm sứ, mà trước hết là đồ gốm, đánh dấu một cột mốc vô cùng quan trọng. Ngay từ 8000 năm trước công nguyên, Các đồ gốm đầu tiên đã được tìm thấy ở Găng – đa – rê Iran, Mu – rây – bát Sire. Và xuất hiện ở Bắc Phi khoảng thiên niên kỷ thứ 10 trước công nguyên, ở Nam Mỹ khoảng thiên niên kỷ thứ 7 trước công nguyên. Đồ sứ ra đời muộn hơn đồ gốm khá lâu, đến năm 620 sau công nguyên, Trung Hoa mới là nước đầu tiên sản xuất Sứ trên thế giới. Nghề làm gốm là một trong những nghề có truyền thống lâu đời nhất tại Việt nam. Kết quả khảo cổ học cho biết đồ Gốm đã được người Việt chế tác, sử dụng cách đây khoảng 10. 000 năm. Trải qua năm tháng, Gốm sứ không chỉ còn là những đồ dùng thủ công phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người chén, nồi, ấm, đĩa… mà còn hơn thế, gốm sứ đã trở thành một nét hồn dân tộc, trở thành một vẻ đẹp riêng, một niềm tự hào riêng nói lên cốt cách, tâm hồn của cả một đất nước Góm sứ Việt Nam qua các thời đại Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Người thợ gốm quan niệm hiện vật gốm không khác nào một cơ thể sống, một vũ trụ thu nhỏ trong đó có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành là kim , mộc, thuỷ , hoả và thổ. Sự phát triển của nghề nghiệp được xem như là sự hanh thông của Ngũ hành mà sự hanh thông của Ngũ hành lại nằm trong quá trình lao động sáng tạo với những quy trình kĩ thuật chặt chẽ, chuẩn xác. Xem thêm Gốm sứ cổ truyền Gốm làng xuất ngoại Gốm thời Lý 1010-1224 Đồ gốm tráng men thời Lý có gốm men trắng ngà,men nâu và men ngọc màu xanh. Gốm men ngọc thời Lý rất tinh tế, xương đất được lọc kỹ, dày và chắc. Lớp men gốm dày phủ kín xương gốm,mịn,bóng, sờ có cảm giác mát tay. Xương gốm và lớp men bám vào nhau rất trong suốt, sâu thẳm,mịn,lấp lánh ánh sáng. Gốm men ngọc xanh có điểm thêm các sắc vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm. Gốm thời Lý Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống Trung Quốc chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống. Gốm thời Trần 1225-1339 Gốm thời Trần tìm được khá nhiều trong các hố khai quật và thường được tìm thấy cùng với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam. Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời Lý và gốm thời Trần là điều không phải dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả nghiên cứu kỹ thuật tạo chân đế, hiện nay chúng tôi bước đầu đã có thể phân biệt được sự khác nhau giữa gốm Lý và gốm Trần. Gốm thời Trần Nhìn chung, kỹ thuật tạo chân đế của gốm thời Trần thường không được làm kỹ như gốm thời Lý. Về hoa văn trang trí cũng vậy, mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Dường như đây là loại hoa văn rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Tại hố đào ở khu D cũng đã tìm thấy mảnh khuôn in gốm thời kỳ này cùng nhiều mảnh bao nung, con kê và đồ gốm phế thải. Gốm thời Lê sơ 1428-1526 Gốm thời Lê Sơ * Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như chén, bát, hộp sứ, lọ, bình, tước… được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là men trắng trong, hoa lam, men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ đạo là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. * Bát Tràng Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường cung cấp cống phẩm cho nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát Thanh Hóa di cư đến lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường phường đất trắng, sau đổi là Bá Tràng phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường nơi làm bát. Sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói… Men trang trí có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang trí rồng 5 móng, lòng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy có thể tạm kết luận rằng việc tìm thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà còn góp thêm bằng chứng tin cậy để củng cố ý kiến cho rằng các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long Gốm thời Hậu Lê 1593-1789 Gốm thời Hậu Lê Nhìn chung, gốm thời Lê – Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm tìm được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải Dương và Bát Tràng. Tình hình này có sự khác biệt lớn so với gốm thời Lê Sơ. Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam, gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Bằng chứng từ những phát hiện trên các con tàu đắm ở Hội An Quảng Nam, Pandanan Philippin… cho thấy những đồ gốm này đã từng là mặt hàng chủ đạo trong việc xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Gốm thời nhà Mạc. Gốm thời nhà Mạc Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương ức thương’ như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mỹ quốc công phu nhân… Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Đồ sứ hoa lam thời các Chúa Nguyễn Đồ sứ hoa lam thời các Chúa Nguyễn Giữa thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XVIII các chúa Nguyễn truyền nhau cai trị vùng đất Nam Hà. Dựa theo tinh thần “Cư trần lạc đạo” thời Lý-Trần, chúa Nguyễn đưa ra chủ trương “Cư Nho mộ Thích”, để ổn định tâm lý xã hội đẩy mạnh việc phát triển đất nước vào phương Nam. Đạo Phật được triều đình lẫn quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ. Trong vương phủ chúa kiến tạo chùa thờ Phật gọi là “Giác Vương Nội viện”, thường thỉnh các vị cao tăng vào thuyết pháp để tu tập. Các chùa sắc tứ được xây dựng chư chùa Thiên Mụ, Thiền Lâm ở Huế, Tam Thai Quảng Nam, Thập Tháp Di Đà Quy Nhơn, Kim Cương, Từ Ân Gia Định… Nam Hà thời này không có lò gốm chuyên môn có thể chế tác từ khí tốt đẹp như các lò gốm truyền thống ở Bắc Hà Chu Đậu, Bát Tràng, Thổ Hà. Do đó, để phục vụ cho nhu cầu thờ cúng, trang trí cung điện, chùa chiền chúa Nguyễn đã gửi kiểu mẫu qua đặt lò gốm tại Giang Tây – Trung Quốc. Thuật ngữ đồ sứ ký kiểu ĐSKK trong sách này được dùng để chỉ những đồ sứ do người Việt Nam, gồm cả vua, quan và thường dân, đặt làm tại các lò gốm sứ Trung Hoa trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, với những yêu cầu riêng về kiểu dáng, màu sắc, hoa văn trang trí, thơ văn minh hoạ và hiệu đề. Những đồ sứ này, trước nay, được biết đến bởi hai tên gọi phổ biến “bleus de Huê” Tiếng Pháp và đồ sứ men lam Huế Tiếng Việt. Ngoài ra, từ năm 1994 tới nay, các nhà nghiên cúu trong và ngoài nước đã có những cuộc tranh luận trên báo chí về tên gọi cho nhóm đồ sứ này và đưa ra nhiều thuật ngữ khác nhau như Đồ sứ men trắng vẽ lam, đồ sứ ngự dụng và quan dụng thời Lê – Nguyễn, đồ sứ ký kiểu của Triều Nguyễn, gốm men xanh trắng của triều Nguyễn, gốm lam Huế, đồ sứ đặc chế, đồ Lam Huế, đồ sứ đặt hàng, gốm sứ Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa…. Festival Gốm sứ Việt Nam – Bình Dương 2010 Festival diễn ra từ ngày tại thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nhằm tôn vinh gốm sứ, một trong những nghề truyền thống từ lâu đời của Việt Nam. Nhiều hoạt động sẽ diễn ra trong suốt thời gian Festival như lễ khai mạc với chủ đề “Thăng Long – Gốm Việt”. gomsudanlan hy vọng rằng thông tin bài viết trên sẽ hữu ích với bạn.
SVVN - Ngày 07/06/2023, Ngài Yamada Takio - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam đã đến thăm và có bài chia sẻ về “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản Khởi nguồn và tương lai” cho hơn 300 giảng viên, sinh viên Trường Đại học Ngoại thương tại Trụ sở chính Hà Nội. Ban lãnh đạo Trường Đại học Ngoại thương cùng Ngài Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam Yamada Takio và Bí thư thứ hai phụ trách giáo dục Okamoto Noriko tại buổi tiếp xã giao trước buổi chia sẻ. Đây là sự kiện nằm trong chuỗi chương trình hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản. Tham dự buổi nói chuyện còn có sự hiện diện của Bà Okamoto Noriko - Bí thư thứ hai phụ trách giáo dục Đại sứ Nhật Bản. Về phía Trường ĐH Ngoại thương có PGS, TS Bùi Anh Tuấn – Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Nhà trường, PGS, TS Lê Thị Thu Thủy - Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Trường; PGS, TS Phạm Thu Hương - Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ, Phó Hiệu trưởng; PGS, TS Cao Đinh Kiên - Trưởng Phòng Hợp tác quốc tế; TS Trần Thị Thu Thuỷ - Trưởng Khoa Tiếng Nhật; PGS, TS Nguyễn Thị Hiền - Viện Trưởng Viện Phát Triển Nguồn Nhân Lực Việt Nam - Nhật Bản VJCC; Trưởng/ Phó một số đơn vị trong Trường cùng đông đảo sinh viên, cán bộ Nhà trường. Phát biểu chào mừng tại sự kiện, PGS, TS Bùi Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương khẳng định “Trong những năm qua, hợp tác giữa Trường Đại học Ngoại thương và các trường đại học, các tổ chức, doanh nghiệp của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ và được coi là một trong những hướng hợp tác chiến lược của Nhà trường. Với sự nỗ lực của thầy và trò, Trường Đại học Ngoại thương đã trở thành một trong những trung tâm kết nối hợp tác các trường đại học, các tổ chức, các doanh nghiệp của Nhật Bản đến với Việt Nam. PGS, TS Bùi Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương phát biểu tại chương trình. Một số kết quả điển hình của hợp tác của Nhà trường với các đối tác Nhật Bản có thể kể đến như i Dự án Viện Phát Triển Nguồn Nhân Lực Việt Nam - Nhật Bản VJCC do JICA tài trợ đã được thực hiện thành công trong gần 20 năm qua với chương trình đào tạo đội ngũ doanh nhân hàng đầu ở Việt Nam như Chương trình Keieijuku. ii Chuỗi bài giảng và cuộc thi kinh doanh Business Contest hợp tác với JETRO; ii Chuỗi bài giảng cho sinh viên được tổ chức bởi Công ty Mitani Sangyo, Ngân hàng Mizuho với sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo nhiều công ty, tập đoàn hàng đầu của Nhật Bản như Công ty Mitani Sangyo, Ngân hàng Mizuho, Công ty Toyota, Hãng hàng không Japan Airlnes...; iii Chương trình cử nhân kinh doanh quốc tế theo mô hình tiên tiến của Nhật Bản, chương trình cử nhân Kinh doanh số với sự tham gia của nhiều trường đại học Nhật Bản như Đại học Rykkyo, Đại học Waseda, Học viện công nghệ Chiba, Đại học Kanto Gakuin cũng như sự tham gia của nhiều doanh nghiệp Nhật Bản. Hai chương trình đào tạo cử nhân này được coi là hình mẫu trong hợp tác về đào tạo của Trường Đại học Ngoại thương với các trường đại học, doanh nghiệp của Nhật Bản hiện nay. iv Hợp tác trong triển khai thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học và tổ chức hội thảo khoa học quốc tế với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, giảng viên Đại học Việt Nam và Nhật Bản. v Hợp tác thực hiện chương trình liên kết đào tạo với nhiều trường đại học của Nhật Bản ĐH Aomori Chuo... thực hiện chương trình trao đổi sinh viên với hơn 30 trường đối tác, mở văn phòng hợp tác của một số trường đại học uy tín Nhật Bản hiện diện tại Trường Đại học Ngoại thương… Gửi lời chào mừng và cảm ơn sâu sắc tới Ngài Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam, PGS, TS Bùi Anh Tuấn cũng bày tỏ sự tin tưởng rằng bài chia sẻ của Ngài Yamada Takio sẽ cung cấp cho cán bộ giảng viên và sinh viên một cái nhìn toàn cảnh về quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản đi theo suốt chiều dài lịch sử, từ quá khứ, đến hiện tại và hướng tương lai của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Qua đó, các cán bộ, giảng viên, các em sinh viên xác định được hướng đi, kế hoạch cá nhân góp phần duy trì mối quan hệ tốt đẹp này trong tương lai. Bài chia sẻ của Ngài đại sứ Yamada Takio gồm 2 nội dung chính Phần thứ nhất, khởi nguồn của mối quan hệ Nhật Bản - Việt Nam từ sự cộng hưởng và đồng cảm giữa hai nước; và Phần thứ hai về “Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam bước nhảy vọt hướng tới tương lai, bước ra thế giới”. Ngài Yamada Takio - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam đã đến thăm và có bài chia sẻ về “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản Khởi nguồn và tương lai” cho hơn 300 giảng viên, sinh viên Trường Đại học Ngoại thương. Trong phần chia sẻ đầu tiên, Ngài đại sứ Yamada Takio đã dẫn chứng các tài liệu lịch sử cùng sự tìm hiểu của các nhà nghiên cứu về sự tương đồng giữa văn hóa, địa lý và mối quan hệ giao thương giữa hai quốc gia. Một số điểm tương đồng giữa hai quốc gia có thể kể đến như Tín ngưỡng kinh A di đà, tín ngưỡng kinh Pháp hoa và Thiền tông; Ảnh hưởng của Nho giáo; Hai quốc gia có vùng biển ở Đông Bắc Á, được phát triển trong môi trường ven núi satoyama. Bên cạnh đó, nhiều tài liệu, sử tích cũng chỉ ra mối quan hệ giao thương, giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia đã tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ 8. Hiện nay, minh chứng về sự giao thương vẫn còn tồn tại như các công trình kiến trúc tại phố cổ Hội An; Sản vật của Việt Nam vượt ra khỏi vùng Đông Bắc Á và lưu truyền đến Nhật Bản gốm Chu Đậu, thổ cẩm Chăm-pa. Những sự tương đồng về lịch sử, văn hóa, địa lý cùng sự chăm chỉ, cần cù của người Việt Nam cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự gần gũi, thân thiết giữa con người hai quốc gia. Hơn nữa, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam tháng 10/2011. Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động thứ 2, nhà đầu tư số 3, đối tác du lịch thứ 3, thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Tính đến tháng 5/2023, Nhật Bản có dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 69,4 tỷ USD, đứng thứ 3 trong tổng số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Thành quả tài trợ ODA của Nhật Bản tại Việt Nam có thể kể đến như cầu Nhật Tân, nhà máy xử lý nước An Dương ở Hải Phòng, dự án đào tạo nguồn nhân lực, và nhiều dự án sắp được triển khai trong thời gian tới. Theo Khảo sát “Thực trạng của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm 2022” được Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản Jetro tiến hành tại 20 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, châu Đại Dương nơi các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư và công bố ngày 13/2/2023 cho thấy, trong số doanh nghiệp trả lời hợp lệ có 603 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam, nhiều nhất ASEAN. Khảo sát này cũng cho thấy, các doanh nghiệp Nhật Bản nhìn nhận môi trường kinh doanh của Việt Nam tích cực về khả năng tăng trưởng. Hiện nay có khoảng 500 nghìn người Việt Nam đang sinh sống tại Nhật Bản, là cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại Nhật Bản sau Trung Quốc. Đây là con số tăng trưởng ấn tượng chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản khi số lượng người Việt Nam sinh sống tại Nhật Bản năm 2011 mới đạt khoảng 50 nghìn người. Số lượng tu nghiệp sinh chiếm khoảng 40% số người Việt Nam sinh sống tại Nhật và là lực lượng không thể thiếu trong sự phát triển của kinh tế Nhật Bản. Đại diện sinh viên Trường Đại học Ngoại thương trao tặng bó hoa tươi thắm thay lời cảm ơn tới Ngài đại sứ Yamada Takio. Phần hỏi đáp giữa sinh viên Trường Đại học Ngoại thương cùng Ngài đại sứ Yamada Takio đã diễn ra sôi nổi. Các bạn sinh viên Nhà trường đã mạnh dạn đặt câu hỏi tới Ngài đại sứ xoay quanh vấn đề như Xu thế toàn cầu hóa và mối quan hệ giữa hai quốc gia; Đánh giá về nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay và lời khuyên cho bạn trẻ Việt Nam khi làm việc trong các doanh nghiệp Nhật Bản; Những lĩnh vực hợp tác phát triển mới giữa hai quốc gia trong kỷ nguyên số,... Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam, Trường Đại học Ngoại thương đã triển khai tổ chức nhiều hoạt động như BizContest 2023 - cuộc thi ý tưởng kinh doanh bằng tiếng Nhật đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam với sự đồng hành của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Hà Nội(JETRO Hà Nội cùng sự bảo trợ từ Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam(JCCI và Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI; Triển khai chuỗi bài giảng về phương thức kinh doanh kiểu Nhật Bản với sự xuất hiện của lãnh đạo 8 doanh nghiệp lớn của Nhật Bản,... 07/06/2023
03-08-2018, 10 17 amDưới thời Lý, gốm sứ Nước Ta tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ. Các nghệ nhân thường vì đây là quá trình vàng của gốm sứ nước ta . Bảo tàng tọa lạc 1 số mẫu gốm sứ thời Lý Thời kỳ hoàng kim của gốm sứ Việt Triều đại nhà Lý các vị vua có tâm nhìn rộng nên có nhiều chính sách khuyến khích giao thương vì thế nghề gốm sứ trở nên hưng thịnh. Nghề gốm phát triển trên khắp dải đất hình chữ S. Hầu hết vùng nào cũng có nghề làm gốm đặc biệt tại các vùng ven sông. Trong quá trình này, lịch sử dân tộc nghề gốm như bước sang trang mới đổi khác can đảm và mạnh mẽ cả về quy mô sản xuất, chủng loại loại sản phẩm cho đến mẫu mã. Lúc này nhiều loại men mới đã sinh ra. Gốm Việt đã có sự không thay đổi về công nghệ tiên tiến sản xuất cũng như phong thái. Hai loại gốm thông dụng nhất thời kỳ này là – Gốm trang trí kiến trúc. Dòng gốm này thường là đất sét để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc lạ. Điển hình là những loại sản phẩm gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, size khác nhau. Gốm trang trí hình chiếc lá nhọn, hình mũi tên cũng rất được người dân yêu thích … – Gốm gia dụng bát đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum, vò, hũ … Đặc biệt men trắng cũng Open ở thời kỳ này ngoài men tro và men đất – những loại thông dụng từ những thời kỳ trước đó . Thời kỳ này nổi lên nhiều làng nghề gốm như làng nghề gốm sứ Bát Tràng, làng nghề gốm sứ Thổ Hà; làng nghề gốm sứ Phù Lãng; làng nghề gốm sứ Hương Canh… Làng gốm cổ Bát tràng thời Lý Gốm thời Lý không riêng gì sử dụng thoáng đãng trong nước mà còn giao thương mua bán đến nhiều vương quốc khác trên quốc tế như Trung Quốc, Nhật Bản … Làng nghề gốm sứ Bát Tràng là một trong những nơi đi đầu về việc giao lưu kinh doanh với những thương nhân quốc tế. Thời kỳ này đến với làng nghề gốm sứ Bát Tràng ta sẽ thấy cảnh trên bến dưới thuyền hàng và người đông đuc sinh động . Sự độc lạ của gốm thời Lý nằm ở đâu ? Có 3 yếu tố tạo nên sự độc lạ của gốm thời Lý Về cách trang trí Trang trí trên gốm sứ thời Lý ngoài những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa, quả còn có hoa văn hình học chiếm vị trí phụ. Sở dĩ xuất hiện các loại hoa văn này là do đã có sự phát triển bước đầu về khoa học. Bên cạnh đó những hoạ tiết hoa lá, chim, thú, người cũng rất được yêu thích. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc rất gần gũi với thiên nhiên và con người Việt Nam. Về kỹ thuật, lò nung Bước tiến lớn của thời kỳ này là sử dụng những lò cóc, lò nằm, có khi cả lò rồng để nâng nhiệt độ nung cho loại sản phẩm lên đến độ C – độ C. Việc sử dụng bao nung và kỹ thuật nung chồng bằng con kê lòng dong được ứng dụng thoáng đãng so với nhiều loại loại sản phẩm đã cho thấy đạt trình độ sản xuất gốm hạng sang, nhất là gốm men ngọc . Về nước men Còn về nước men, những người thợ thủ công tiến trình này đã tìm tòi và thành công xuất sắc trong việc tạo ra nước men trắng vô cùng đặt biệt . Men trắng cũng là loại men đặc trưng cho làng nghề gốm sứ bát tràng. Các nghệ nhân của làng nghề gốm sứ bát tràng đã thổi hồi cho loại men này vẻ đẹp riêng không lẫn vào đâu . Bài liên quan mekoong
gốm sứ việt nam qua các thời kỳ